Xử lý nước thải sinh hoạt

Công ty TNHH Hóa chất Xây dựng Môi trường Việt Khang chuyên tư vấn thiết kế, xây dựng, lắp đặt, bảo trì hệ thống xử lý nước thải.

Nước thải sinh hoạt là nước thải từ các khu dân cư, khu vực hoạt động thương mại, khu vực công sở, trường học và các cơ sở tương tự khác.

Thành phần nước thải sinh hoạt:

  • Nước đen: là nước thải nhiễm bẩn do chất bài tiết của sinh viên từ các nhà vệ sinh, chứa phần lớn các chất gây ô nhiễm. Trong nước thải này chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh và dễ gây mùi hôi thối. Hàm lượng các chất hữu cơ (BOD) và các chất dinh dưỡng N, P cao. Loại nước thải này thường gây nguy hại đến sức khỏe và dễ làm nhiễm bẩn nguồn nước mặt.
  • Nước xám: là nước thải nhiễm bẩn phát sinh từ quá trình: tắm, rửa, giặt giũ của sinh viên với thành phần chất ô nhiễm không đáng kể. Loại nước thải này chứa chủ yếu các chất lơ lửng và các chất tẩy rửa nhưng nồng độ các chất hữu cơ lại thấp và khó bị phân hủy sinh học. Trong loại nước thải này chứa nhiều tạp chất vô cơ.

Tính chất nước thải sinh hoạt: Nước thải sinh hoạt chứa nhiều chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học, ngoài ra còn có các thành phần vô cơ, vi sinh vật, và vi trùng gây bệnh rất nguy hiểm. Ở những khu vực đông đúc dân cư, điều kiện vệ sinh thấp kém, nước thải sinh hoạt không được xử lý thích đáng là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt của một ký túc xá đầu ra cột A QCVN 14:2008/BTNMT

Nước thải kí túc xá theo trạm thoát nước dẫn đến hố thu gom của trạm xử lý nước thải. Trong bể tiếp nhận có lắp đặt thiết bị tách rác thô nhằm loại ra bỏ tất cả các loại rác thô có trong nước thải có thể gây tắc nghẽn đường ống làm hư hại máy bơm và làm giảm hiệu quả xử lý của giai đoạn sau. Nước thải từ đây được bơm lên bể tách dầu mỡ, trước khi vào bể tách dầu mỡ, nước thải sẽ qua thiết bị tách rác tinh để loại bỏ các tạp chất, rác có kích thước nhỏ. Bể tách dầu mỡ có nhiệm vụ loại bỏ dầu, mỡ có trong nước thải trước khi qua các công trình xử lý tiếp theo. Sau khi tách mỡ nước thải sẽ tự chảy sang bể điều hòa. Bể điều hòa có nhiệm vụ điều hòa về lưu lượng và nồng độ trong nước thải tránh gây hiện tượng quá tải vào các giờ cao điểm cũng như thời gian mà lượng nước gia tăng đột ngột. Do đó giúp cho trạm làm việc ổn định, và nâng cao hiệu quả cho các công trình đơn vị phía sau. Nước thải từ bể điều hòa sẽ được bơm đến công trình xử lý tiếp theo là bể anoxic. Bể anoxic là nơi tiếp nhận nước thải từ bể điều hòa và dòng dung dịch xáo trộn (bùn hoạt tính + nước thải) từ bể sinh học hiếu khí tuần hoàn. Với môi trường thiếu khí, quá trình phân huỷ hợp chất hữu cơ và khử Nitrat diễn ra nhờ các vi sinh vật sử dụng Nitrat, Nitrite làm chất oxy hóa để sản xuất năng lượng.  Bể thiếu khí còn đóng vai trò là một hệ chọn lọc vi sinh hiếu khí để chống lại hiện tượng bùn nổi do vi khuẩn dạng sợi gây ra. Sau đó hỗn hợp bùn nước thải từ bể thiếu khí tiếp tục qua bể hiếu khí vật liệu đệm để tiếp tục quá trình xử lý. Bể MBBR  là nơi diễn ra quá trình phân huỷ hợp chất hữu cơ và quá trình Nitrat hoá trong điều kiện cấp khí nhân tạo bằng máy thổi khí. Lượng khí cung cấp vào bể với mục đích: cung cấp oxy cho vi sinh vật hiếu khí chuyển hóa chất hữu cơ hòa tan thành nước và CO2, nitơ hữu cơ thành ammonia thành nitrat NO3; xáo trộn đều nước thải và bùn hoạt tính tạo điều kiện để vi sinh vật tiếp xúc tốt với các cơ chất cần xử lý; giải phóng các khí ức chế quá trình sống của vi sinh vật, các khí này sinh ra trong quá trình vi sinh vật phân giải các chất ô nhiễm; tác động tích cực đến quá trình sinh sản của vi sinh vật.

Hỗn hợp bùn hoạt tính và nước thải gọi là dung dịch xáo trộn (mixed liquor). Trong bể hiếu khí vật liệu đệm còn được lắp đặt bơm bùn tuần hoàn để tuần hoàn hỗn hợp bùn + nước thải chứa nitrat và cơ chất về bể anoxic, tạo điều kiện cho quá trình khử nitrate xử lý để nitơ, còn lại sẽ tự chảy đến bể lắng bùn sinh học. Bể lắng bùn sinh học có nhiệm vụ lắng và tách bùn hoạt tính ra khỏi nước thải, làm giảm SS .Tại bể lắng, nước thải đi từ dưới lên trên qua ống trung tâm, bùn sẽ lắng xuống và được gom vào đáy bể. Bùn sau khi lắng có hàm lượng SS = 8000-12000 mg/l, một phần sẽ bơm tuần hoàn trở lại bể hiếu khí để giữ ổn định mật độ cao vi khuẩn, tạo điều kiện phân hủy nhanh chất hữu cơ. Lưu lượng bùn dư thải ra mỗi ngày sẽ được bơm về bể nén bùn. Độ ẩm bùn hoạt tính dao động trong khoảng 98 – 99.5%. Nước thải sau khi tách bùn được châm Chlorine khử trùng trước khi xả ra nguồn tiếp nhận. Chlorine, chất oxy hóa mạnh thường được sử dụng rộng rãi trong quá trình khử trùng nước thải. Ngoài mục đích khử trùng, Chlorine còn có thể sử dụng để giảm mùi. Hàm lượng chlorine cần thiết để khử trùng cho nước sau lắng, 3-15 mg/l. Hàm lượng chlorine cung cấp vào nước thải ổn định bằng bơm định lượng hóa chất. Nước sau khử trùng đạt tiêu chuẩn cột A – QCVN 14:2008/BTNMT. Sau khi qua bể khử trùng, nước sẽ tự chảy sang hồ cảnh quan và sau đó thoát ra nguồn tiếp nhận.

Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
Hotline: 0902 576 506 – 0274 3800 140
Email: moitruongvietkhang@gmail.com